Hiện phytoestrogen có 4 họ chính bao gồm:
Isoflavone: Isoflavone vốn là họ phytoestrogen được đưa vào nghiên cứu nhiều nhất. Nhóm thực phẩm có chứa chất isoflavone thường có trong họ nhà đậu, nổi bật nhất là đậu nành.
Lignan: Lignan có trong thực phẩm như: hạt lanh, lúa mì, rau, dâu tây...
Coumestan: Hiện nay thực phẩm có chứa coumestan thường có trong củ cải đường và giá đỗ.
Stilbene: Stilbene thường có nhiều trong các loại hạt là chính.
Vì cấu trúc hóa học của phytoestrogen khá giống với estrogen nên 2 chất này có cách thức hoạt động tương tự nhau và đều mang đến nhiều lợi ích cho sức khỏe.
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ MINH CHỨNG KHOA HỌC
ĐÁNH GIÁ KHOA HỌC CỦA EFSA (Cục an toàn thực phẩm Châu Âu)
Tạp chí Wiley -Tháng 9, 2015
https://efsa.onlinelibrary.wiley.com/doi/epdf/10.2903/j.efsa.2015.4246
Hàm lượng tiêu thụ Isoflavone an toàn hàng ngày trong khoảng 35-150 mg với phụ nữ nói chung
Hội đồng EFSA ANS được yêu cầu đưa ra ý kiến khoa học về mối liên quan có thể có giữa việc tiêu thụ isoflavone từ TPCN và tác hại lên tuyến vú, tử cung và tuyến giáp ở phụ nữ thời kỳ tiền mãn kinh và sau mãn kinh. Isoflavone là các chất tự nhiên có thể được tìm thấy trong đậu nành, cỏ ba lá đỏ và rễ cây sắn dây. Các isoflavone chính là genistein, daidzein, glycitein, formononetin, biochanin A và puerarin. Cấu trúc hóa học của chúng có liên quan đến 17β-
oestradiol và chúng có đặc tính gây oestrogen. Hơn nữa, isoflavone có thể tương tác với quá trình tổng hợp hormone tuyến giáp.
Thực phẩm bổ sung nhắm mục tiêu đến phụ nữ tiền mãn kinh và sau mãn kinh thường cung cấp một lượng isoflavone hàng ngày trong khoảng 35–150 mg / ngày. Một đánh giá có hệ thống đã được thực hiện để điều tra xem liệu có thể tìm thấy mối liên quan giữa việc tiêu thụ isoflavone từ thực phẩm bổ sung và tác dụng phụ trên ba cơ quan đích ở phụ nữ tiền mãn kinh và sau mãn kinh hay không. Dữ liệu trên người không ủng hộ giả thuyết về sự gia tăng nguy cơ ung thư vú từ các nghiên cứu quan sát cũng như không ảnh hưởng đến mật độ chụp nhũ ảnh cũng như biểu hiện của dấu hiệu tăng sinh Ki-67 trong các nghiên cứu can
thiệp. Không có ảnh hưởng nào đến độ dày nội mạc tử cung và những thay đổi mô bệnh học trong tử cung cho đến 30 tháng bổ sung 150 mg / ngày isoflavone đậu nành. Sau 60 tháng, một số thay đổi mô bệnh học không ác tính đã được báo cáo. Mức độ hormone tuyến giáp không thay đổi sau khi hấp thụ isoflavone từ thực phẩm bổ sung. Phơi nhiễm cơ bản từ chế độ ăn uống trong dân số châu Âu nói chung được ước tính là thấp hơn 1 mg / ngày, trong khi ở những người tiêu dùng thực phẩm làm từ đậu nành, con số này có thể cao hơn.
Về bệnh ung thư vú (Bảng 4), sự gia tăng tương tự trong lượng isoflavone đậu nành (10 mg / ngày) có liên quan đến việc giảm 9% nguy cơ tử vong do ung thư vú. Tuy nhiên, điều quan trọng là chỉ ra rằng những tác dụng có lợi của việc tiêu thụ isoflavone đậu nành đã được thể hiện ở những phụ nữ bị ung thư vú âm tính với thụ thể estrogen, chứ không phải ở những phụ nữ bị ung thư vú
dương tính với thụ thể, những người có tiên lượng tốt hơn. Theo nghĩa này, Micek et al. (2020) đã thực hiện một phân tích tổng hợp với 15 nghiên cứu thuần tập với mục đích khám phá mối liên quan giữa lượng isoflavone (<62,7 mg / ngày) với tỷ lệ tử vong do ung thư vú và sự tái phát của nó. Các tác giả đã tìm thấy mối liên hệ nghịch đảo đáng kể giữa lượng isoflavone và cả tỷ lệ tử vong nói chung và sự tái phát ung thư vú.
Bảng số 4: Hiệu quả của Isoflavon với các loại ung thư khác nhau
1. Nghiên cứu của Nachvack và các cộng sự (2019) với 23 nghiên cứu với 330,826 bệnh nhân ung thư cho kết quả: lượng tiêu thụ các sản phẩm từ đậu nành tăng 10mg/ngày – giảm 9% rủi ro tử vong do ung thư vú (âm tính với thụ thể estrogen)
2. Nghiên cứu của Micek và các công sự (2020) với 15 nghiên cứu trên 49,659 bệnh nhân mắc ung thư vú cho kết quả: với hàm lượng tiêu thụ Isoflavon mỗi ngày trong khoảng dưới 62.7 mg/ngày cho kết quả: giảm tỷ lệ tử vong và tái phát ở bệnh nhân ung thứ vú
3. Nghiên cứu của Zhong và các cộng sự (2016) trên 178,947 bệnh nhân cho kết quả: Sử dụng tổng lượng Isoflavone hàm lượng dưới 63 mg/ngày sẽ làm giảm 19% rủi ro ung thư tử cung, tỷ lệ này cao hơn với các phụ nữ châu Á
4. Nghiên cứu của Hua và các cộng sự (2016) với 6275 bệnh nhân và 393,776 đối chứng cho kết quả: Sử dụng hàng lượng Isoflavone dưới 41mg/ngày làm giảm 33% rủi ro ung thư buồng trứng
TÓM TẮT
Sức khỏe phụ nữ sẽ là mối quan tâm trên toàn thế giới, nhưng nó vẫn là một phân đoạn nghiên cứu bị bỏ qua ở hầu hết các nước đang phát triển và vẫn chưa được coi là trung tâm ở các quốc gia phát triển. Một số mối quan tâm riêng về sức khỏe phụ nữ xoay quanh cả hai khía cạnh bệnh lý và sinh lý. Những căn bệnh đặc trưng cho giới tính này bao gồm ung thư vú, cổ tử cung và buồng trứng, và những lo lắng về sinh lý như mãn kinh và loãng xương, thường cùng tồn tại. Gần đây, các vấn đề sức khỏe của phụ nữ, bao gồm cả hội chứng sau mãn kinh, đã thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu cũng như các nhà thực hành, mở ra những con đường nghiên cứu dược phẩm và lâm sàng mới hơn.
Black Cohosh chứng minh các đặc tính chống ung thư đáng kể và nghiên cứu này có thể hỗ trợ đáng kể trong việc hiểu biết về tác động phân tử của BC đối với ER-α, PR và BRCA1 trong tế bào ung thư vú.
Black cohosh (BC) là một phương thuốc thảo dược được phụ nữ mãn kinh sử dụng để giảm bớt các cơn bốc hỏa, rối loạn cảm xúc, rối loạn giấc ngủ và các phàn nàn khác liên quan đến thời kỳ mãn kinh. 16 TCN được phân lập từ thân
rễ của Cimicifuga racemosa , một loài thực vật có nguồn gốc từ Bắc Mỹ. Nó đã được biết đến để chứng minh các đặc tính lợi tiểu, chống tiêu chảy và chống oxy hóa. BC đã được sử dụng trên khắp các nền văn hóa trong nhiều thế kỷ như
một phương thuốc cho nhiều loại phàn nàn về sức khỏe, bao gồm cả như một chất chống viêm của người Mỹ bản địa. Liệu pháp thay thế hormone thông thường, được sử dụng để điều trị các triệu chứng mãn kinh, gần đây đã được
phát hiện là làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú hoặc ung thư nội mạc tử cung. Do đó, các lựa chọn thay thế thảo dược như BC hiện nay được sử dụng phổ biến hơn làm phương pháp điều trị mãn kinh.
Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh tác dụng ức chế sự phát triển của BC đối với các tế bào ung thư vú ở người. Dự án này cố gắng giúp xác định xem BC có tác dụng kích thích tố estrogen hay kháng dị ứng, cũng như xác minh
tiềm năng của nó như một phương pháp điều trị ung thư vú. Nó cũng xem xét ảnh hưởng của BC đối với PR và BRCA1. Cấu trúc hóa học của BC được tìm thấy có những biến đổi dựa trên carbohydrate được gọi là glycoside triterpene;
BC được sử dụng trong các nghiên cứu này có 2,5% thành phần triterpeneglycoside (NatureX, Avignon, Pháp). Nghiên cứu này sẽ góp phần hiểu rõ hơn về tác dụng của các biện pháp chữa bệnh bằng thảo dược, đang được sử dụng
phổ biến hơn như một phương pháp điều trị mãn kinh, đối với các tế bào ung thư vú.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng BC không hoạt động bằng cách bắt chước tác động của estrogen; thay vào đó, nó gây ra quá trình apoptosis (chết tế bào) và ngăn chặn sự tăng sinh thông qua các con đường sinh hóa khác. Các nghiên cứu
khác cho thấy tác dụng ức chế tăng trưởng của BC đối với tế bào ung thư vú có liên quan đến cấu trúc hóa học của glycoside triterpene.
Thành phần: Black cohosh extract (2.5% Triterpene Glycosides): 40 mg; Isoflavon Soy bean extract 40%: 40 mg; Mexican Wild Yam extract (10% Diosgenin): 20 mg
Cách dùng: Uống 1 viên/lần, 1 lần/ngày hoặc theo chỉ định của bác sĩ
NPN và tầm quan trọng của số NPN trên các sản phẩm từ Canada
Với hơn 71% dân số sử dụng các sản phẩm bổ trợ sức khoẻ từ thiên nhiên, Canada luôn tự hào rằng họ là quốc gia có hệ thống bảo vệ sức khoẻ và sự an toàn với những tiêu chuẩn quy định nghiêm ngặt nhất Thế giới. Hệ thống này giúp người dân Canada tiếp cận được các sản phẩm y tế có nguồn gốc tự nhiên an toàn, hiệu quả với chất lượng cao.
Trọng tâm của hệ thống này là Số sản phẩm tự nhiên (NPN- Natural Product Number), một dãy số gồm tám chữ số được in trên nhãn mác sản phẩm. Số NPN này được tìm thấy trên bao bì nhãn mác các sản phẩm sức khoẻ từ thiên nhiên (NHPs- Natural Health Products) được cấp phép bán hợp pháp tại Canada với ý nghĩa sản phẩm đã được Bộ Y tế Canada (Health Canada) xác thực về tính an toàn, hiệu quả và chất lượng.